Bản chất của trợ cấp thôi việc là trợ cấp mà NSDLĐ chi trả cho NLĐ khi chấm dứt HĐLĐ theo quy định tại Điều 48 BLLĐ. Bản chất của trợ cấp mất việc làm là trợ cấp mà NSDLĐ chi trả cho NLĐ khi NSDLĐ thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã mà buộc phải cho NLĐ nghỉ việc theo quy định tại Điều 49 BLLĐ. Vậy trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc được chi trả trong những trường hợp cụ thể nào? Mức trợ cấp là bao nhiêu? Thời gian được tính để chi trả các trợ cấp này là như thế nào? Các vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể sau đây.
1. Đối với trợ cấp thôi việc
1.1 Các trường hợp NSDLĐ phải chi trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ
NLĐ đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên sẽ được NSDLĐ trả trợ cấp thôi việc khi chấm dứt HĐLĐ theo một trong các căn cứ sau:
– Khi HĐLĐ hết hạn nhưng các bên không gia hạn hoặc ký HĐLĐ mới (trừ trường hợp NLĐ là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp đồng lao động thì được gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ);
– Đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ đối với trường hợp làm việc theo các công việc nhất định đã thỏa thuận trong hợp đồng, khi hoàn thành công việc cũng đồng nghĩa với việc HĐLĐ đã được thực hiện xong;
– Hai bên thoả thuận chấm dứt HĐLĐ, hai bên cùng thống nhất chấm dứt HĐLĐ thông qua thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ;
– NLĐ bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong HĐLĐ theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án;
– NLĐ chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; NSDLĐ là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết;
– NSDLĐ không phải là cá nhân mà là tổ chức chấm dứt hoạt động;
– NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ có căn cứ pháp luật theo quy định tại Điều 37 của BLLĐ;
– NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ có căn cứ pháp luật theo quy định tại Điều 38 của BLLĐ.
1.2 Mức trợ cấp thôi việc
– Khi chấm dứt HĐLĐ, tương ứng với mỗi năm làm việc trong thời gian được tính trợ cấp thôi việc NLĐ sẽ được NSDLĐ trả một nửa tháng tiền lương.
– Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo HĐLĐ của 06 tháng liền kề trước khi thôi việc.
1.3 Thời gian làm việc được tính trợ cấp thôi việc
– Đối với NLĐ đã được đóng bảo hiểm thất nghiệp, khi thôi việc NLĐ sẽ được hưởng các khoản chi trả dựa trên khoản thời gian đã đóng bảo hiểm từ cơ quan bảo hiểm, NSDLĐ chỉ có trách nhiệm chi trả trợ cấp đối với khoản thời gian NLĐ làm việc cho mình nhưng chưa được đóng bảo hiểm thất nghiệp, vì vậy thời gian để tính trợ cấp thôi việc không phải là toàn bộ thời gian NLĐ đã làm việc theo HĐLĐ.
– Thời gian làm việc được tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ trừ đi thời gian NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc.
Trong đó:
- Thời gian NLĐ đã làm việc thực tế cho NSDLĐ bao gồm thời gian NLĐ đã làm việc cho NSDLĐ; thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho NSDLĐ; thời gian được NSDLĐ cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ hằng tuần, nghỉ việc hưởng nguyên lương; thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của NLĐ; thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm tội;
- Thời gian NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: thời gian NSDLĐ đã đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian NSDLĐ đã chi trả cùng lúc với kỳ trả lương của NLĐ một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật;
– Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc của NLĐ được tính theo năm (đủ 12 tháng), tương ứng với một năm làm việc sẽ được hưởng trợ cấp một nửa tháng lương, trường hợp thời gian làm việc để tính trợ cấp mà có tháng lẻ thì sẽ tính như sau:
- Thời gian có từ đủ 01 tháng đến dưới 06 tháng sẽ được tính bằng nửa năm làm việc;
- Thời gian có từ đủ 06 tháng trở lên được tính bằng một năm làm việc.
Một điểm cần lưu ý là, theo quy định trên, thời gian NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ không được tính để trả trợ cấp thôi việc. Như vậy, nếu NLĐ bắt đầu làm việc từ hoặc sau ngày 01/01/2009 trở về sau (thời điểm bắt đầu áp dụng bảo hiểm thất nghiệp) và NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp tại doanh nghiệp từ khi bắt đầu làm việc thì khi chấm dứt HĐLĐ, NSDLĐ không có nghĩa vụ chi trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ. Trong trường hợp này, NLĐ sẽ được hưởng chế độ trợ cấp do BHXH chi trả theo quy định.
2. Đối với trợ cấp mất việc làm
2.1 Các trường hợp NSDLĐ phải chi trả trợ cấp mất việc làm cho NLĐ
NLĐ đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên sẽ được NSDLĐ trả trợ cấp mất việc trong trường hợp chấm dứt HĐLĐ theo một trong các căn cứ sau:
– Trường hợp NSDLĐ thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế mà NSDLĐ không thể giải quyết được việc làm mới mà phải cho NLĐ thôi việc theo Điều 44 BLLĐ. Theo đó:
- Thay đổi cơ cấu, công nghệ gồm các trường hợp: thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động; hoặc thay đổi sản phẩm, cơ cấu sản phẩm; hoặc thay đổi quy trình, công nghệ, máy móc, thiết bị sản xuất, kinh doanh gắn với ngành, nghề sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động.
- Lý do kinh tế thuộc một trong các trường hợp: khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế; hoặc thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc thực hiện cam kết quốc tế2.
– Trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã mà NSDLĐ cho NLĐ thôi việc theo Điều 45 BLLĐ.
2.2 Mức trợ cấp mất việc làm
– Khi chấm dứt HĐLĐ, tương ứng với mỗi năm làm việc trong thời gian được tính trợ cấp mất việc NLĐ sẽ được NSDLĐ trả một tháng tiền lương.
– Tiền lương làm căn cứ để tính trợ cấp là tiền lương bình quân theo HĐLĐ của 06 tháng liền kề trước khi thôi việc.
2.3 Thời gian làm việc được tính trợ cấp mất việc làm
– Thời gian làm việc được tính trợ cấp mất việc làm được tính tương tự với thời gian làm việc tính trợ cấp thôi việc ở mục 1.3
– Trường hợp NLĐ đủ điều kiện được hưởng trợ cấp mất việc làm nhưng thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc ít hơn 18 tháng thì NLĐ được chi trả trợ cấp mất việc là 02 tháng tiền lương. Như vậy, trợ cấp mất việc tối thiểu cho NLĐ nếu đủ điều kiện hưởng trợ cấp mất việc sẽ là 02 tháng tiền lương kể cả khi thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc là dưới hai năm.
Cần lưu ý, cũng giống như trường hợp trợ cấp thôi việc, thời gian NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ không được tính để trả trợ cấp mất việc. Như vậy, nếu NLĐ bắt đầu làm việc từ hoặc sau ngày 01/01/2009 trở về sau (thời điểm bắt đầu áp dụng bảo hiểm thất nghiệp) và NLĐ đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp tại doanh nghiệp từ khi bắt đầu làm việc thì khi chấm dứt HĐLĐ, NSDLĐ không có nghĩa vụ chi trả trợ cấp mất việc cho NLĐ. Trong trường hợp này, NLĐ sẽ được hưởng chế độ trợ cấp do BHXH chi trả theo quy định.
3. Trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm trong trường hợp đặc biệt
Ngoài trường hợp tính trợ cấp như phân tích phía trên, khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã theo Điều 45 BLLĐ mà NLĐ chấm dứt HĐLĐ thì NSDLĐ mới có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc cho thời gian NLĐ đã làm việc cho mình và cả cho thời gian NLĐ đã làm việc cho NSDLĐ trước khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã nếu NSDLĐ cho NLĐ thôi việc.
Cụ thể, sau khi chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã, NLĐ tiếp tục được sử dụng, NLĐ đưa đi đào tạo lại để tiếp tục sử dụng, NLĐ được chuyển sang làm việc không trọn thời gian tại doanh nghiệp, khi chấm dứt HĐLĐ thì NSDLĐ kế tiếp có trách nhiệm tính, trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm đối với thời gian NLĐ làm việc thực tế cho mình và cả cho thời gian NLĐ làm việc thực tế tại doanh nghiệp trước khi chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản, kể cả thời gian làm việc tại khu vực nhà nước được tuyển dụng lần cuối vào doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản trước ngày 01 tháng 01 năm 1995.
Điều kiện về thời gian chi trả trợ cấp cho trường hợp này cũng được áp dụng tương tự như các trường hợp nêu tại mục 1 và 2 ở trên.
4. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, NSDLĐ có trách nhiệm thanh toán đầy đủ trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm cho NLĐ3. Trong các trường hợp dưới đây thời hạn thanh toán có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động:
- Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;
- Người sử dụng lao động hoặc người lao động gặp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh truyền nhiễm;
- Người sử dụng lao động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc lý do kinh tế theo quy định tại Điều 13 Nghị định 05/2015/NĐ-CP.
Nói tóm lại, theo các phân tích trên có thể hiểu rằng khi NSDLĐ đã kê khai và đóng bảo hiểm thất nghiệp đầy đủ cho NLĐ kể từ khi bắt đầu làm việc thì NSDLĐ sẽ không phải chi trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm cho NLĐ. Trong trường hợp đó, NLĐ sẽ được hưởng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. NSDLĐ chỉ chi trả trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc cho thời gian NLĐ làm việc cho NSDLĐ mà không tham gia bảo hiểm thất nghiệp mà thôi.
Bạn đọc có thể trực tiếp tham khảo để biết thêm các quy định có liên quan về trợ cấp thôi việc tại Điều 48 BLLĐ, hướng dẫn bởi Điều 14 Nghị định 05/2015/NĐ-CP, Điều 8 Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH; và các quy định có liên quan về trợ cấp mất việc làm được quy định tại Điều 49 BLLĐ, được hướng dẫn bởi Điều 14 Nghị định 05/2015/NĐ-CP, Điều 8 Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH.
Minh Hoàng – Xuân Trang, VPLS TriLaw
[Nguồn: http://trilaw.com.vn/